Bộ Công an và Bộ Quốc phòng có nhiều đại diện trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, hai bộ này luôn có ghế trong Bộ Chính trị các khóa - nhóm những nhân vật quyền lực nhất của Đảng.
Bộ Công an và Bộ Quốc phòng có nhiều đại diện trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, hai bộ này luôn có ghế trong Bộ Chính trị các khóa - nhóm những nhân vật quyền lực nhất của Đảng.
Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan lãnh đạo của Đảng trong thời gian giữa hai kỳ đại hội.
Trung ương Đảng có thẩm quyền bầu Bộ Chính trị và các chức danh chủ chốt là tổng bí thư, ủy viên Bộ Chính trị.
Về việc kỷ luật đảng viên, theo Quy định 22-QĐ/TW năm 2021, Ban Chấp hành Trung ương là cấp quyết định kỷ luật cuối cùng trong việc quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, kể cả ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư.
Điều này cho thấy Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan đầy quyền lực của Đảng và các ủy viên Trung ương Đảng làm trọn một nhiệm kỳ cũng là những ứng cử viên tiềm năng để vào Bộ Chính trị.
Xét Trung ương Đảng các khóa gần đây 11, 12 và 13, ủy viên đại diện của Bộ Quốc phòng luôn đứng đầu, theo sau là Bộ Công an.
Đơn cử, khóa 13, Trung ương Đảng có tới 23 ủy viên từ Bộ Quốc phòng, còn Bộ Công an có 6 người.
Theo một nhà quan sát, việc Bộ Quốc phòng luôn đứng đầu số ủy viên trong Trung ương Đảng cũng cho thấy Bộ Quốc phòng có "quyền lực chính trị" nhiều hơn Bộ Công an.
"Hai bộ cùng thuộc lực lượng vũ trang Việt Nam nhưng lực lượng vũ trang quốc phòng đông hơn lực lượng vũ trang công an và quyền lực mạnh hơn," người này bình luận.
Dù Bộ Chính trị khóa 13 có tới năm người có xuất thân từ công an và chỉ có ba người từ quân đội nhưng thời điểm được bầu vào Bộ Chính trị, chỉ duy nhất có ông Tô Lâm là đang công tác trong Bộ Công an.
Còn các ông Phạm Minh Chính, Nguyễn Hòa Bình, Phan Đình Trạc, Nguyễn Văn Nên tuy có nền tảng từ ngành này nhưng trước khi vào Bộ Chính trị, họ được Đảng luân chuyển, phân công làm nhiệm vụ khác, không còn phục vụ trong Bộ Công an nữa.
Trong khi đó, Đại tướng Phan Văn Giang và Đại tướng Lương Cường (người vừa được phân công làm thường trực Ban Bí thư) đều đang thuộc Bộ Quốc phòng ở thời điểm được bầu vào Bộ Chính trị.
Không chỉ có khóa 13, Bộ Chính trị khóa 2, 3 và 8 cũng có tới hai tướng quân đội trong khi Bộ Công an chỉ có một.
Về điều này, nhà quan sát chính trị Việt Nam giấu tên nói trên lý giải với BBC:
"Trong cấu trúc quyền lực hành pháp Việt Nam, từ năm 1945 đến nay, Bộ Quốc phòng là bộ quan trọng nhất, rồi đến Bộ Công an. Sau đó mới đến Bộ Ngoại giao... Vì thế trong cơ cấu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng luôn có số lượng ủy viên cao hơn nhiều, so với Bộ Công an.
"Bộ Quốc phòng đã có vài khóa có hai ủy viên Bộ Chính trị, Còn Bộ Công an chưa bao giờ có hai ủy viên Bộ Chính trị. Tất cả chỉ để khẳng định Bộ quốc phòng (tức là Quân đội nhân dân Việt Nam) là tổ chức quan trọng nhất trong cấu trúc quyền lực hành pháp của Việt Nam," người này phân tích.
Như vậy, xét cả Trung ương Đảng lẫn Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng có nhiều đại diện hơn Bộ Công an nhiều lần.
Một chi tiết khác cần lưu ý là theo Điều lệ Đảng, tổng bí thư là bí thư Quân ủy Trung ương nên chức vụ này do ông Nguyễn Phú Trọng nắm giữ.
Còn Bộ trưởng Phan Văn Giang hiện làm phó bí thư Quân uỷ. Thường vụ của cơ quan hiện nay là thủ tướng Phạm Minh Chính, Đại tướng Lương Cường và Tổng tham mưu trưởng Thượng tướng Nguyễn Tân Cương.
Phía công an có Đảng ủy Công an Trung ương do Bộ trưởng Tô Lâm làm bí thư. Ban thường vụ gồm có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng một số lãnh đạo Bộ Công an.
Ông Thưởng trước khi thôi chức cũng có mặt trong thường vụ Quân ủy Trung ương và Đảng ủy Công an Trung ương.
"Quân ủy quan trọng hơn vì tổng bí thư là bí thư Quân ủy, còn Đảng ủy Công an trung ương chỉ có bộ trưởng là bí thư thôi nên Đảng ủy Công an trung ương ít quyền lực hơn quân ủy," nhà quan sát chính trị nói với BBC.
Quân đội còn có hệ thống điều tra, tình báo, có tòa án và viện kiểm sát riêng.
Sau khi bà Trương Thị Mai thôi chức, ông Lương Cường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, được phân công làm thường trực Ban Bí thư.
Theo Quy định số 80-QĐ/TW của Bộ Chính trị, thường trực Ban Bí thư còn được Bộ Chính trị ủy quyền để xem xét, bổ nhiệm lại đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý mà công tác tại các ban đảng, cơ quan, đơn vị và tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc Trung ương.
Điều này cho thấy vị trí thường trực Ban Bí thư cũng có tiếng nói trong việc quy hoạch nhân sự thuộc diện Bộ Chính trị và Ban Bí thư quản lý.
Giáo sư Alexander L Vuving, Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye (Hoa Kỳ), nói với BBC News Tiếng Việt rằng việc thăng cấp thường trực Ban Bí thư cho Đại tướng Lương Cường giúp điều chỉnh lại cán cân quyền lực trong nhóm lãnh đạo cao nhất của Đảng, đặc biệt là giữa hai lực lượng vũ trang của Đảng – đó là công an và quân đội.
Theo ông Abuza, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có thể dùng quân đội để cân bằng quyền lực, vì “chỉ có quân đội mới là lực lượng làm đối trọng với Bộ Công an”.
Cần nói thêm ở đây, vị trí thường trực Ban Bí thư mà Đại tướng Lương Cường nắm giữ là một trong 5 chức danh quyền lực nhất, bên cạnh "Tứ Trụ".
Chưa kể, xét các đời tổng bí thư từ sau Đổi mới tới nay, có thể thấy một thông lệ rằng các vị này đều từng nắm chức vụ trong "Tứ Trụ" hoặc từng làm thường trực Ban Bí thư.
Như vậy, vị trí thường trực Ban Bí thư có thể là một "bước đệm" để tiến đến vị trí cao nhất trong Đảng.
Trong lịch sử, chưa từng có tổng bí thư nào xuất thân từ công an nhưng từ quân đội thì có Thượng tướng Lê Khả Phiêu.
Thế nên, khả năng ông Lương Cường có thể thăng tiến xa hơn là rất cao.
Giáo sư Abuza nói rằng quân đội có hình tượng đẹp trong lòng nhân dân vì trong các cuộc chiến giành độc lập, họ đã đóng một vai trò quan trọng.
Giáo sư Abuza cũng nói rằng, quân đội ngày càng tránh xa nhiệm vụ giải quyết các vụ bất ổn trong nước. Do đó, họ càng bảo vệ được hình tượng của mình.
Trong khi đó, công an thường mang hình ảnh không mấy tốt đẹp trong mắt công chúng.
Điều này có thể đúng cả với các đại biểu Quốc hội (với hơn 97% là đảng viên) khi sự tín nhiệm của họ dành cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cao hơn Bộ trưởng Bộ Công an.
Vào tháng 10/2023, kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội khóa 15 bầu, phê chuẩn thì Đại tướng Tô Lâm nhận 329 phiếu “tín nhiệm cao” (khoảng 68% tổng phiếu thu về) và có tới 43 phiếu “tín nhiệm thấp” (khoảng 8,94%).
Người đứng đầu về số phiếu "tín nhiệm cao" là Đại tướng Phan Văn Giang với 448 phiếu (chiếm 93,14%) và ông Giang chỉ có 4 phiếu "tín nhiệm thấp" (khoảng 0,83%).
Giáo sư Carl Thayer đánh giá với BBC rằng ông Tô Lâm không được lòng các đồng chí của mình và “có những người thực sự lo ngại về ông Tô Lâm, nên ông ấy là một ứng viên gây chia rẽ”.
“Đảng Cộng sản Việt Nam thường muốn hướng tới sự ổn định và đồng thuận, điều này gây bất lợi cho ông Tô Lâm,” Giáo sư Thayer đánh giá.
Ngày 17/2/1979 được đánh dấu là thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biên giới hai nước. Đó là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu giữa những “đồng chí”, đồng minh một thời.
Lúc bấy giờ, Việt Nam vừa thống nhất đất nước sau Chiến tranh Việt Nam thì lại phải lâm vào cuộc chiến với Khmer Đỏ ở Campuchia. Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình gọi Việt Nam là “tiểu bá” và rắp tâm “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Chiến tranh nổ ra trên toàn tuyến biên giới vào ngày 19/2/1979, nhưng trước đó, trong tháng 1 và 2 cùng năm, Trung Quốc đã thực hiện hàng trăm vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ Việt Nam. Phía Trung Quốc gọi cuộc chiến này là Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến (Chiến tranh tự vệ đánh trả Việt Nam), còn phía Việt Nam thoạt tiên gọi là Cuộc chiến chống bè lũ bành trướng Trung Hoa.
Khi đã hết chiến tranh, trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, trước nhu cầu củng cố quan hệ với Trung Quốc, chính quyền Việt Nam đã tránh làm đậm thông tin cuộc chiến này, tên cuộc chiến cũng đã thay đổi.
Về sau, tên gọi thường được biết đến nhiều nhất là Chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979. Tên của “kẻ thù Trung Quốc” cũng ít được nhắc đến một cách chính thức, như cách mà chính quyền Việt Nam hay nhắc tới Pháp, Nhật, Mỹ trong các cuộc chiến trước đó.
Các lễ kỷ niệm cuộc chiến không được tổ chức long trọng, với sự tham gia của các lãnh đạo cấp cao nhất của trung ương như các “lễ mừng chiến thắng” thường thấy tại Việt Nam.
Trong khi đó, người dân hằng năm vẫn tưởng nhớ, với các hoạt động dâng hương tại Hà Nội và nhiều nơi.
Tinh thần chống Trung Quốc của người dân trong các dịp này thường được chính quyền Việt Nam theo dõi chặt chẽ với sự cảnh giác cao độ để không “bị thế lực thù địch lợi dụng” hoặc “tránh các diễn biến xấu, vượt kiểm soát”.
Trong những năm gần đây, báo chí Việt Nam nhắc đến cuộc chiến này nhiều hơn, với tên gọi “Trung Quốc” được đề cập, nhưng vẫn theo tinh thần chỉ đạo là “tránh làm căng thẳng quan hệ hai nước”.
Cuộc chiến giữa “những đồng chí xã hội chủ nghĩa” Việt Nam và Trung Quốc là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu và kỳ lạ, khi cả hai bên đều tuyên bố thắng lợi.
Trước và sau chiến tranh, quan chức hai bên vẫn gọi nhau là “đồng chí”, vẫn ôm nhau như những bằng hữu, huynh đệ.
Chiến tranh biên giới Việt – Trung thường được xác định diễn ra từ ngày 17 tháng 2 đến 16 tháng 3 năm 1979.
Kết thúc, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành các mục tiêu chính trị, quân sự và kinh tế nên chủ động rút lui.
Trong khi đó, phía Việt Nam cho rằng họ đã đánh lùi được Trung Quốc.
Nguồn hình ảnh, AFP/Getty Images
Mỗi bên đưa ra các con số thiệt hại khác nhau, nhưng theo số liệu phương Tây, phía Trung Quốc có khoảng 20.000 – 28.000 người thiệt mạng, Việt Nam có khoảng 20.000 người chết hoặc bị thương.
Trên thực tế, cuộc xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc còn kéo dài suốt thập niên 1980, với các vụ đụng độ giữa bộ binh và các màn pháo kích liên miên giữa hai bên.
Xung đột chỉ thực sự chấm dứt khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm 1991.
Từ đó đến nay, các mâu thuẫn về lãnh thổ, lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp tục tồn tại.
Tuy nhiên, lãnh đạo hai nước vẫn không ngừng nêu cao luận điệu về tình anh em, đồng chí.