Để đảm bảo thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật góp phần hình thành chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân. Tại Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy định 05 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự. Cụ thể:
Để đảm bảo thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật góp phần hình thành chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân. Tại Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy định 05 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự. Cụ thể:
- Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
- Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
- Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
- Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.
Bộ luật Dân sự mới nhất là Bộ luật Dân sự 2015.
- Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự:
Bộ luật Dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).
+ Bộ luật Dân sự là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự.
+ Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.
+ Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp dụng.
+ Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
- Chính sách của Nhà nước đối với quan hệ dân sự:
+ Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
+ Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích.
Tóm tắt: Hôn nhân là sự kết hợp giữa các cá nhân trên cơ sở tình cảm, xã hội hoặc tôn giáo tạo nên mối quan được xem là vợ chồng trong mối quan hệ với gia đình. Quan hệ hôn nhân trong lịch sử nhân loại đã tồn tại dưới nhiều hình thái như: hôn nhân đa thê/đa phu – tức một người có thể có nhiều người vợ/chồng, hôn nhân một vợ một chồng, hôn nhân đồng tính,…. Chế định hôn nhân ra đời là tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh quan hệ giữa vợ và chồng trong xã hội phù hợp với tư tưởng, quan điểm của xã hội thời đó. Lịch sử pháp luật Việt Nam từ trước đến nay đã ghi nhận những chế định hôn nhân khác nhau được xây dựng qua từng thời kỳ, thể hiện sự phù hợp với thời đại và phát triển theo thời gian. Bài viết này phân tích về những khía cạnh về hôn nhân trong hệ thống pháp luật hôn nhân trong giai đoạn phong kiến, để thấy được bản chất, những điểm hạn chế, tiến bộ của chế định hôn nhân Việt Nam thời đó.
Từ khoá: Chế định hôn nhân, Phong kiến, Việt Nam.
Thời kỳ phong kiến ở Việt Nam bắt đầu từ năm 939 đến năm 1858, trải qua sự thống trị của 10 triều đại phong kiến: Triều đại Ngô (939-965), Triều Đinh (968-980), Triều đại Tiền Lê (980-1010), Triều Lý (1010-1225), Triều đại nhà Trần (1226-1400), Triều đại nhà Hồ (1400-1407), Triều đại Lê sơ – Hậu Lê (1428-1527), Triều đại nhà Mạc (1527-1593), Triều đại Tây Sơn (1789-1802), Triều Nguyễn (1802-1954). Thời Ngô, Đinh, Lê, nhà nước chưa có một hệ thống pháp luật[1]. Đến các thời đại thuộc các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã đánh dấu cho sự phát triển của xã hội phong kiến và nền văn hoá truyền thống Việt Nam, trong đó có nền móng của các bộ luật đầu tiên của nhà nước phong kiến gồm: Bộ luật Hình thư thời Lý, Quốc triều hình luật thời Trần, Lê triều Hình luật hay còn gọi là Luật Hồng Đức thời Lê và Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi Luật Gia Long của nhà Nguyễn.
Luật pháp thời phong kiến thường chú trọng đến các thể chế hình sự và quyền lợi của giai cấp thống trị, tuy nhiên theo thời gian cũng đã có các chế định hôn nhân, đa số liên quan đến các điều cấm.
1. Tổng quan chế định hôn nhân tại các bộ luật thời phong kiến Việt Nam
Hình thư được vua Lý Thái Tông thời nhà Lý ban năm 1042, được xem là bộ luật đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc nhưng một số nội dung thì còn được lưu lại trong sử cũ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển, có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế… Sau khi ban hành, nhà Lý cho cho hành thể lệ chuộc tội và đặt thêm một số quy định.
Đối với chế định hôn nhân, những ghi chép của sử cũ để lại cho thấy Bộ luật hình thư không có nội dung rõ ràng về những chế định ràng buộc quan hệ hôn nhân vợ chồng.
Năm 1230, Trần Thái Tông ban hành bộ Quốc triều thông chế quy định về tổ chức chính quyền, sau đó qua vài lần sửa chữa và bổ sung, nhà Trần lại ban hành bộ Quốc triều hình luật[2]. Theo sử sách ghi lại, nội dung chính của bộ Quốc triều hình luật thời Trần gồm 03 nội dung chính liên quan đến hình sự về xử phạt các tội như trộm cắp, gian dâm, gian phu, gian phụ; phân chia giai cấp, tầng lớp và nông nghiệp. Chế định về hôn nhân chưa thể hiện rõ nét tại bộ luật này.
1.3. Lê triều Hình luật hay còn gọi là Luật Hồng Đức
Năm 1483, vua Lê Thánh Tông đã quyết định triệu tập các đại thần để biên soạn một bộ luật chính thức của triều đại mình, thường được gọi là Luật Hồng Đức; ở các thế kỷ XVII-XVIII bộ luật được sửa đổi, bổ sung và được ban hành với cái tên Lê triều hình luật[3]. Đây được xem là bộ luật kế thừa và sáng tạo độc đáo thành tựu pháp luật trước đó, đánh dấu một trình độ phát triển cao của tư tưởng pháp lý phong kiến của Việt Nam. Riêng về chế định hôn nhân, Lê triều hình luật đã có những quy định khá rõ ràng thể hiện quan điểm của thời đại lúc bấy giờ. Chế định hôn nhân nằm ở Chương Hộ Hôn (hôn nhân gia đình), Quyển III của Bộ luật điều chỉnh các quan hệ như kết hôn, chấm dứt hôn nhân (do chết hoặc ly hôn).
Nguyên tắc cơ bản trong quy định pháp luật thời kỳ này vẫn mang tư tưởng phong kiến như hôn nhân áp đặt, đa thê, bất bình đẳng giữa vợ và chồng, tuy nhiên vẫn có một số điểm tiến bộ như đề cao trật tự gia đình, bảo vệ quyền của cha mẹ, chồng, vợ cả; có hơi hướng bảo vệ quyền con người và phụ nữ hơn so với trước đây.
Đối với điều kiện kết hôn, Lê triều Hình luật có một số quy định về điều kiện và giới hạn khi kết hôn nổi bật như sau: người đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lấy chồng hoặc cưới vợ thì bị xử tội đồ (Điều 317); không được kết hôn khi ông, bà, cha hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội, nếu ông bà cha mẹ đồng ý thì không được bày cỗ bàn ăn uống (Điều 318); không được kết hôn giữa những người trong họ hàng thân thích (Điều 319); anh, em, học trò không được lấy vợ của em, anh, thầy học đã chết (Điều 324), với một số quy định khác trong các điều 316, 323, 334, 338, 339 của Quốc triều hình luật.
Trong Lê triều Hình luật không quy định về độ tuổi được kết hôn, tuy nhiên trong Thiên Nam dư hạ tập (một Bộ sách về pháp luật thời Lê sơ, do Đỗ Nhuận và Thân Nhân Trung biên soạn vào thời vua Lê Thánh Tông), phần lệ Hồng Đức hôn giá có viết: “Con trai 18 tuổi, con gái 16 tuổi mới có thể thành hôn”. Do đó có thể ghi nhận ở giai đoạn này đã tồn tại đâu đó những giới hạn về độ tuổi kết hôn.
Về hình thức và thủ tục kết hôn, Lê triều Hình luật quy định về hình thức và thủ tục kết hôn như đính hôn và thành hôn như: người kết hôn phải đem đủ sính lễ đến nhà cha mẹ người con gái (nếu cha mẹ chết thì đem đến nhà người trưởng họ hoặc trưởng làng) để xin phép (Điều 314); nếu đã nhận đồ sính lễ (tiền, lụa, vàng bạc, lợn, rượu) thì phải gả con gái, nhà trai nếu đã có sính lễ rồi mà không lấy nữa thì bị phạt và mất đồ sính lễ (Điều 315); con gái đã hứa gả chồng được kêu quan trả đồ lễ trước khi thành hôn nếu người con trai bị tác tật, phạm tội hoặc phá tán gia sản, nếu con gái bị ác tật hay phạm tội thì không phải trả đồ lễ (Điều 322). Ngoài các quy định trên, Lê triều Hình luật không có quy định cụ thể hơn về thủ tục thành hôn và được nhà nước quản lý.
Thứ hai, quan hệ tài sản vợ chồng
Trong chương Hộ hôn của Bộ luật không có quy định rõ về quan hệ tài sản của vợ chồng, tuy nhiên tại một số điều tại chương Điền sản của Bộ luật cho thấy một số điều luật điều chỉnh về quan hệ tài sản này.
Điều 374 Bộ luật quy định về việc chồng chết trước không có chúc thư thì điền sản thuộc về con vợ trước hay con chồng trước. Có điểm tiến bộ tại quy định này còn tồn tại đến nay rằng nếu điền sản của vợ và chồng cùng làm ra thì chia làm hai phần mỗi người một nữa, cho thấy quan điểm pháp luật có phần giống với pháp luật hiện đại; tuy nhiên sau khi chia ra hai phần, phần của chồng được chia như trước, phần của vợ trước thì để riêng cho con, còn phần của vợ sau thì được nhận làm của riêng. Như vậy tài sản nếu chồng và vợ trước chết thì để lại cho con. Điều 375, 376 tiếp tục quy định về việc chia điền sản trong trường hợp vợ chồng không có con hoặc ai chết trước mà không có chúc thư và trường hợp vợ chồng đã có con nếu một người chết trước sau đó con cũng chết.
Nhìn chung, quan hệ tài sản của vợ chồng trong bộ luật này mới được manh nha quy định, liên quan đến điền sản, dù việc quy định còn cục bộ, chưa rõ ràng và đầy đủ nhưng cũng thể hiện sự tiến bộ so với hệ thống pháp luật trước.
Lê triều Hình luật không cho vợ tự ý bỏ bỏ chồng, cụ thể theo Điều 321, nếu vợ cả, vợ lẽ tự tiện bỏ nhà chồng đi, lấy chồng khác thì đều bị xử tội đồ, người và gia sản phải trả về nhà chồng cũ.
Quan hệ hôn nhân trong giai đoạn này có thể chấm dứt trong trong 04 trường hợp sau: Thứ nhất, hôn nhân chấm dứt do vợ hoặc chồng chết trước. Trường hợp này không được quy định trực tiếp mà được quy định gián tiếp tại Điều 2, Điều 320 của bộ luật, theo đó, người chồng được lấy vợ mới sau khi vợ chết, còn người vợ chỉ được lấy chồng mới sau khi chấm dứt mãn tang chồng. Thứ hai, buộc phải ly hôn do vi phạm các quy định cấm kết hôn tại các Điều 317, 318, 323, 324, 334 như: có tang cha mẹ mà vẫn kết hôn, ông bà cha mẹ bị giam cầm tù tội mà vẫn kết hôn, các quan và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xướng làm vợ, quan ty mà cùng với tù trưởng ở nơi biên trấn kết làm thông gia. Thứ ba, ly hôn do lỗi của người vợ. Theo quy định tại Điều 310, người được bỏ vợ nếu người vợ phạm phải điều nghĩa tuyệt, tức là hết ân nghĩa vợ chồng, nếu chồng chịu giấu không bỏ thì vợ bị xử phạt. Thứ tư, ly hôn do lỗi của người chồng. Theo các Điều 308, 333, người vợ có quyền trình quan xin ly hôn nếu chồng bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại, nếu có con thì 1 năm hoặc chồng mắng nhiếc cha mẹ vợ một cách phi lí.
Như vậy có thể thấy, Lê triều Hình luật luật thể hiện rõ bản chất của giai cấp phong kiến, có tồn tại những hạn chế trong tư tưởng thời kì này, quan hệ hôn nhân gắn liền với hình phạt, bảo vệ quyền lợi của nam hơn nữ. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những điểm tiến bộ như thể hiện truyền thống tốt đẹp của gia đình, lễ nghĩa, có hơi hướng bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
1.4. Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là Bộ Luật Gia Long
Năm 1811, Tổng trấn Bắc Thành được lệnh chủ trì việc biên soạn bộ luật mới của thời Nguyễn, đến năm 1815, bộ luật được ban hành với tên “Hoàng triều luật lệ” (hay “Luật Gia Long”)[4], đây được xem là một trong hai bộ luật lớn nhất thời phong kiến. Chế định hôn nhân trong bộ luật này được quy định trong tại Quyển 7 “Hộ luật”, chương Hôn nhân gồm có 16 điều.
Về điều kiện kết hôn, Bộ luật Gia Long có một số quy định thể hiện điều kiện kết hôn như:
– Về độ tuổi kết hôn: Điều 94 Bộ luật Gia Long có nói về độ tuổi hôn nhân của nam nữ, có tuổi đã định, nhưng luật không quy định rõ độ tuổi là bao nhiêu, theo kinh Lễ thì đối với con trai là 16 tuổi, đối với con gái là 14 tuổi, dưới tuổi ấy thì hôn nhân bị cấm[5].
– Về sự ưng thuận của hai bên, cha mẹ: Theo quy định tại Điều 109, người con trai và người con gái không thể làm trái mệnh lệnh của người chỉ dẫn và định đoạt của người chủ hôn như ông bà, cha mẹ, bác, chú, cô, anh trưởng, chị trưởng, ông bà ngoại. Như vậy, pháp luật thời này đề cao sự ưng thuận của cha mẹ, bậc tôn trưởng, chủ hôn trong quan hệ hôn nhân của nam nữ; tuy nhiên cuối Điều 94 cũng thể hiện sự ưng thuận của nam nữ có thể được chấp thuận “Khi một người ti ấu, mà có quan chức hay đi làm ăn xa không ở nhà, nếu ông bà, cha mẹ, chú bác, cô ruột, anh chị trưởng có kết hôn nhân cho, trong khi người ấy vắng mặt mà người ti ấu đó đã thành hôn rồi thì hôn nhân trước là hợp lệ”[6]
– Không có thân thuộc, thích thuộc với nhau: Các điều 100, 101, 102 Bộ luật Gia Long đã đề cập những trường hợp thân thuộc, đồng tông, đồng tính và những người tôn ty không được lấy nhau. Ví dụ, Điều 102 quy định rằng “ai mà lấy thiếp của cha, ông, hay bác dâu, thím không kề là đã bị bỏ (xuất) hay đã tái giá đều bị giảo, ai mà lấy cô, cháu gái, chị em họ từ hàng tiều công trở lên đều bị tội gian dâm”, đối với những thân thuộc đồng tính đồng tông thì tội được định ở Điều 100 là 60 trượng và hôn nhân bị thủ tiêu[7].
– Tương tự như Lê triều Hình luật, nếu trong thời gian tang chế chưa mãn, chưa đủ 27 tháng, nếu con trai lấy vợ, con gái lấy chồng là tội bất hiếu, gọi là thập ác, Điều 98 phạt cả 2 bên nam nữ và cả người chủ hôn 100 trượng.
Ngoài ra còn một số quy định cấm khác khi kết hôn như: theo Điều 94, cấm con cháu không được lấy vợ, lấy chồng khi cha mẹ, ông bà bị giam cầm vì phạm tội tử hình; theo Điều 107, cấm hôn nhân giữa người quý (tức người lương dân) và tiện (tức là nô tỳ); theo Điều 104, 105, cấm chế việc nhà quyền thế ăn hiếp lấy con gái lương dân; Điều 108 phạt 80 trượng đối với tăng đồ đạo sĩ lấy vợ chính hay vợ thư và bắt hoàn tục[8].
Về hình thức và thủ tục kết hôn, Điều 94 Hoàng Việt luật lệ có quy định rằng nếu đã gả con gái mà đã có lập tờ hôn thú mà lại không gả nữa thì người chủ hôn bị phạt 50 roi, người con gái phải gả cho người đã hỏi, tuy không có hôn thú mà nhận sính lễ rồi thì cũng tội như thế; … người con gái phải gả cho người hỏi trước, nếu người hỏi trước không lấy nữa thì phải bồi sính lễ gấp hai, và người con gái được gả cho người hỏi sau; nhà trai đã đưa sính lễ rồi mà không lấy nữa thì mất đồ sính lễ[9]. Điều 108 quy định rằng: “Nếu nhà trai để 5 năm không cưới thì nhà gái được phép kêu quan đề quan cấp giấy chứng nhận cho và cho phép kết hôn với người khác”. Như vậy, cũng giống như Quốc triều Hình luật, Hoàng Việt luật lệ cũng không nêu rõ hình thức, thủ tục kết hôn, chỉ có những quy định ràng buộc trong những trường hợp đã thực hiện lễ nghi, sính lễ theo phong tục ngày xưa. Điều 94 Hoàng Việt luật lệ có đề cập đến “tờ hôn thú” nhưng không nói rõ thủ tục như thế nào, tuy nhiên đây được xem là một trong những chứng cớ hôn nhân.
Thứ hai về quan hệ tài sản vợ chồng
Điều 76 và Điều 83 của Hoàng Việt Luật lệ đã đề cập đến việc chia tài sản giữa chánh thất, thứ thất và thừa kế tài sản của cha mẹ để lại. Theo Điều 76, con nuôi cũng được hưởng quyền thừa kế. Còn theo Điều 86, con trai dòng chính được thừa kế tài sản, không phân biệt con của thê, thiếp, nô tì, nếu không có người thừa kế thì giao cho con gái nhận lãnh, nếu không có con gái thì cho phép quan địa phương trình bày rõ lên thượng thi tính toán hợp lý việc sung công.
Như vậy, quan hệ tài sản vợ chồng trong trường hợp chồng chết trước theo Lê triều Hình luật hay Hoàng Việt luật lệ đều để lại cho con cái, song Hoàng Việt luật lệ có quy định rõ ràng hơn về trình tự giải quyết.
Thứ ba, về quan hệ chấm dứt hôn nhân
Chấm dứt hôn nhân do người vợ bỏ đi: Theo Hoàng Việt luật lệ, vợ chồng phải đồng cư với nhau, theo Điều 108, nếu vợ tự ý bỏ chồng đi thì sẽ bị phạt 100 trượng, nếu đi lấy chồng khác thì phải tội giảo giam hậu, ngoài sự trừng phạt này, người chồng còn được quyền gả hay bán vợ đi[10], khi đó hôn nhân sẽ chấm dứt. Theo Điều 284 Hoàng Việt Luật lệ, nếu vợ đánh chồng thì chồng muốn li dị sẽ được phép.
Hôn nhân chấm dứt do chồng bỏ đi: Theo Điều 108, chồng bỏ vợ và trốn đi mất tích, nếu trong hạn ba năm mà vợ cũng lại bỏ nhà chồng mà không xin phép quan phải 80 trượng, nếu vợ tự ý cải giá thì phải phạt trượng 100. Như vậy theo điều này, nếu chỉ khi người vợ bỏ nhà chồng đi trong thời hạn 3 năm sau khi chồng đi mất thì mới bị tội, còn lại, người vợ có thể trình quan định đoạt cho chấm dứt mối quan hệ hôn nhân này.
Hôn nhân chấm dứt do thuận tình ly hôn: Theo Hoàng Việt luật lệ, nếu vợ và chồng không hoà hợp với nhau, cả hai muốn chia lìa thì không phải tội[11].
2. Nhận xét chế định hôn nhân của pháp luật phong kiến Việt Nam
Chế định hôn nhân được thể hiện rõ ở hai bộ luật thời Lê và thời Nguyễn là Lê triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ. Các quy định mới manh nha được giai cấp thống trị xây dựng ít nhiều tồn tại những hạn chế, nhưng cũng có tiến bộ theo thời gian.
Thứ nhất, mang hơi hướng công cụ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp và tư tưởng của giai cấp phong kiến, chế định về hôn nhân cũng thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó, là sự pháp điển hoá tư tưởng, đạo đức Nho giáo thời kỳ đó.
Thứ hai, chế định hôn nhân chưa được phân định rõ ràng với các ngành luật khác, trong tất cả các quy định, việc điều chỉnh đều có sự tham gia của hình phạt nặng nề như đồ, biếm, trượng,…
Thứ ba, các quy định về chế định hôn nhân chưa được toàn diện, chưa được sắp xếp khoa học theo từng vấn đề của hôn nhân mà được quy định theo hiện thực xã hội.
Dù tồn tại những hạn chế của thời đại nhưng cũng không thể phủ nhận những điểm tiến bộ và đột phá của chế định hôn nhân kể từ khi xuất hiện trong hệ thống pháp luật:
Thứ nhất, thể hiện tính dân chủ, có hơi hướng tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Dù phạm vi quyền lợi này còn hạn chế, nhưng trong mối quan hệ hôn nhân, người vợ vẫn có quyền đảm bảo điều kiện kết hôn như nhận sính lễ, hay được quyền chấm dứt hôn nhân nếu người chồng bỏ đi sau thời hạn nhất định, được định đoạt tài sản của mình. Ngoài ra, có điểm đáng chú ý là hình phạt trong quan hệ hôn nhân của người phụ nữ khi phạm tội thường nhẹ hơn người đàn ông.
Thứ hai, chế định hôn nhân thời phong kiến mang đậm nét tinh hoa văn hoá người Việt thời bấy giờ, từ việc tôn trọng đấng sinh thành, tôn thờ văn hoá xây dựng gia đình.
Thứ ba, sự tiến bộ thể hiện qua thời gian từ bộ Lê triều hình luật đến Hoàng Việt luật lệ khi chế định hôn nhân được quy định đầy hơn, luật sau bổ sung luật trước, rõ ràng và phù hợp hơn.
Từ những phân tích trên cho thấy, pháp luật Việt Nam nói chung hay chế định hôn nhân trong thời đại phong kiến Việt Nam đã để lại những giá trị nhất định cho xã hội lúc bấy giờ. Dù không điều chỉnh quan hệ hôn nhân một cách toàn diện những cũng đã giải quyết được những vấn đề có xảy ra trong đời sống thường ngày. Do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng và bản chất giai cấp nên ít nhiều chế định hôn nhân vẫn còn những hạn chế nhất định, nhưng bên cạnh đó cũng có những điểm tiến độ đặt nền móng cho chế định hôn nhân thời kỳ sau phát triển và toàn diện hơn.
Luật sư Hoàng Thuý Quỳnh – Luật sư FDVN
[1] Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, tr. 127
[2] Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, tr. 185
[3] Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, tr. 320
[4] Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Tr.439
[5] Hôn nhân trong Luật xưa, Nguyễn Toại, tr.3
[6] Hôn nhân trong Luật xưa, Nguyễn Toại, tr.4
[7] Hôn nhân trong Luật xưa, Nguyễn Toại, tr.6
[8] Hôn nhân trong Luật xưa, Nguyễn Toại, tr.69, 70
[9] Hôn nhân trong Luật xưa, Nguyễn Toại, tr.72
[10] Hôn nhân trong Luật xưa, Nguyễn Toại, tr.75
[11] Hôn nhân trong Luật xưa, Nguyễn Toại, tr.88
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: [email protected] [email protected]
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Từ thời Tây Chu, lễ dần dần trở thành một thể chế chính trị, hỗ trợ cho hình luật. Tuy nhiên, do đặc điểm tình hình lúc bấy giờ và do sự xuất hiện các tư tưởng chính trị khác, đặc biệt là thuyết pháp trị- phù hợp với tình hình xã hội nên việc áp dung lễ giáo chưa giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt trong triều đại nhà Tần, Tần thủy Hoàng chủ trương chỉ sử dụng pháp luật, không dùng lễ giáo nhân nghĩa để cai trị. Do đó, lễ giáo trong thời kì này rất mờ nhạt. Từ nhà Hán trở về sau, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho giáo để quản lí nhà nước và biến nho giáo thành quốc giáo thì lễ- nội dung trọng tâm của nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình luật để chủ trương xây dựng và thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì các nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì. Thực hiện chủ trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến Trung Quốc áp dụng các nguyên tắc: Đức chủ hình phụ và Lễ pháp tịnh dụng.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật phong kiến Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC: A - ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................1 B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:…………………………………………..1 I. Cơ sở hình thành và phát triển cũng như các loại nguồn cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc…..................................................................1 1.Cơ sở hình thành và phát triển của pháp luật phong kiến TrungQuốc...1 2.Các loại nguồn cơ bản của pháp luật phong kiến Trung quốc.............1-2 II. Đặc trưng của pháp luật phong kiến Trung Quốc..................................2 1. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa lễ và hình............2 2. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị, giữa quy phạm đạo đức với quy phạm pháp luật………………….........3-4 3. Đánh giá chung về tầm ảnh hưởng của pháp luật phong kiến Trung Quốc đến các nước phương Đông và Việt Nam………………………………4-5 C - KẾT LUẬN...........................................................................................6 A-ĐẶT VẤN ĐỀ: Nhà nước phong kiến Trung Quốc có lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu đời. Trải qua hàng ngàn năm lại càng được hoàn thiện và vững chắc hơn nữa, trở thành một nhà nước điển hình và có tầm ảnh hưởng lớn ở phương Đông ngay từ thời kì đầu và suốt cả quá trình tồn tại. Pháp luật phong kiến Trung Quốc với những đặc trưng nổi bật của mình chính là một trong những yếu tố chính làm nền một Trung Hoa giàu có, hưng thịnh và vững mạnh từ xa xưa. B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I) CƠ SỞ HÌNH THÀNH - PHÁT TRIỂN VÀ CÁC LOẠI NGUỒN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TRUNG QUỐC: 1. Cơ sở hình thành và phát triển của pháp luật phong kiến Trung Quốc Như chúng ta đã biết Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng quan trọng và rộng lớn nhất thuộc kiến trúc thượng tầng, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.Bởi vậy sự hình thành và phát triển của nhà nước luôn gắn với sự hình thành và phát triển của pháp luật. Do đó cơ sở của sự hình thành và phát triển pháp luật cũng dựa trên cơ sở hình thành và phát triển của nhà nước, bao gồm: - Cơ sở kinh tế: Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất đóng vai trò chủ đạo và sự tồn tại của công xã nông thôn tạo nên cơ sở vật chất của nhà nước quân chủ chuyên chế - Cơ sở chính trị – xã hội: Giai cấp địa chủ phong kiến hầu hết là trung và đại địa chủ- đây chính là giai cấp thống trị trong xã hội - Cơ sở tư tưởng: là Học thuyết chính trị nho giáo. 2. Các loại nguồn cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc Được đánh giá là nước có nền luật pháp tương đối phát triển so với các nước ở phương Đông bởi vậy Luật pháp phong kiến trung Quốc khá hoàn thiện và đầy đủ với 5 nguồn chủ yếu, đó là: - Lệnh: Chiếu chỉ của hoàng đế ban ra - Luật: Quy định về chế độ ruộng đất, sản xuất nông nghiệp… - Cách: Những cách thức làm việc của quan chức nhà nước - Thức: Thể thức có liên quan đến việc khám nghiệm, tra hỏi, xét xử.... - Lệ: Án lệ. II) ĐẶC TRƯNG CỦA PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TRUNG QUỐC 1. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa lễ và hình Lễ là nguyên tắc xử sự của con người thuộc các đẳng cấp khác nhau trong các quan hệ xã hội. Lễ là nội dung trọng tâm của nho giáo. Lễ giáo phong kiến xác lập và củng cố mối quan hệ tam cương, ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội, quan hệ vua tôi, quan hệ cha mẹ – con cái, quan hệ chồng -vợ. Đó là trật tự của xã hôi phong kiến. Hình là hình phạt hay nói rộng ra là pháp luật. Từ thời Tây Chu, lễ dần dần trở thành một thể chế chính trị, hỗ trợ cho hình luật. Tuy nhiên, do đặc điểm tình hình lúc bấy giờ và do sự xuất hiện các tư tưởng chính trị khác, đặc biệt là thuyết pháp trị- phù hợp với tình hình xã hội nên việc áp dung lễ giáo chưa giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt trong triều đại nhà Tần, Tần thủy Hoàng chủ trương chỉ sử dụng pháp luật, không dùng lễ giáo nhân nghĩa để cai trị. Do đó, lễ giáo trong thời kì này rất mờ nhạt. Từ nhà Hán trở về sau, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho giáo để quản lí nhà nước và biến nho giáo thành quốc giáo thì lễ- nội dung trọng tâm của nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình luật để chủ trương xây dựng và thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì các nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì. Thực hiện chủ trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến Trung Quốc áp dụng các nguyên tắc: Đức chủ hình phụ và Lễ pháp tịnh dụng. Nhà nước phong kiến Trung Quốc còn sử dụng nguyên tắc “tam cương ngũ thường”của nho gia làm chủ đạo. Tam cương là nội dung cơ bản trong giáo lí của đạo nho và được pháp luật bảo vệ bằng việc quy định 10 trọng tội ( thập ác). Trong đó các tội trái với đạo hiếu có 6 tội( ác nghịch, bất đạo, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn). Các tội bất trung với hoàng đế phong kiến có 4 tội( mưa phản quốc, mưa đại nghịch, mưa phản loạn, đại bất kính).Trong quan hệ hôn nhân theo giáo lí đạo Nho và cũng là theo luật pháp quy định, người chồng có quyền li dị vợ nếu người vợ chỉ cần phạm một trong 7 điều sơ suất( thất suất): không con, dâm dật, không phụng sự cha mẹ chồng, miệng lưỡi nói năng lung tung, trộm cắp, ghen tuông, ác tật. Luât pháp từ Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều “nhất chuẩn hồ lễ”. Hay nói cách khác luật pháp luôn luôn củng cố và bảo vệ lễ giáo phong kiến, trật tự của đẳng cấp của xã hội phong kiến, chính thể quân chủ chuyên chế phong kiến 2. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị, giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức. Trong xã hôi phong kiến Trung Quốc đã tồn tại hai quan điểm đối lập nhau đó là: Quan điểm của pháp gia và quan điểm của nho gia. Hai quan điểm này như hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của xã hội phong kiến Trung Quốc. Quan điểm của hai trường phái này được thể hiện tương ứng qua hai học thuyết pháp trị và đức trị. - Nội dung của học thuyết pháp trị: +, Pháp: Phải có hệ thống pháp luật rõ ràng, minh bạch, hợp lí, ổn định, ban hành cho khắp dân chúng biết; phải thi hành pháp luật nghiêm chỉnh, triệt để, chí công vô tư”. +, Thế: Ở đây thuyết pháp trị sử dụng nội dung “chính danh” của nho giáo, theo đó vua phải làm tròn phận sự của mình, các quan lại, dân chúng tùy theo danh phận của mình mà làm tròn công việc của mình. Trong đó chỉ có vua mới là người có thể cai trị thiên hạ +, Thuật: phương pháp, thủ đoạn cai trị, nó bao gồm hai nội dung: bổ nhiệm và khảo thạch kiểm tra, thưởng phạt. Ở Trung quốc, tư tưởng pháp trị được biểu hiện đầu tiên trong một câu nói của Quản Trọng- tướng quốc của Tề Hoàn Công vào khoảng đầu thời Xuân Thu: “Vua-tôi, trên-dưới, sang- hèn đều tuân theo pháp luật cả, thế gọi là đại trị”. Một nguyên tắc nổi tiếng của pháp trị là “Trời không vì một vật nào mà thay đổi bốn mùa. Minh quân, pháp quân cũng không vì vật nào mà thay đổi luật pháp”. Sau những nguyên lí đức trị của Khổng Tử được đề ra, đã xuất hiện từng bước những bất đồng về chính trị giữa “đức trị” và “pháp trị”. Sang thời chiến quốc rối ren, loạn lac, Tuân Huống, cũng là một danh nho đề ra thuyết “tính ác” coi bản tính con người vốn là ác, cho nên phải được uốn nắn bằng lễ, nghĩa thì con người mới làm được điều thiện. Học trò của Tuân Huống là Hàn Phi lại thiên về dùng pháp luật và hình phạt khắc nghiệt để ngăn chặn tính ác của con người. Hàn Phi cùng một số triết gia khác lập ra trường phái pháp trị, trong đó có Lí Tư, về sau làm cận thần của Tần Thủy Hoàng, thúc đẩy nhà vua ráo riết thi hành pháp trị bằng mọi thủ đoạn và hình phạt tàn ác. - Nội dung của học thuyết đức trị:( là nội dung chủ yếu của nho giáo) Theo Khổng Tử, pháp luật chỉ làm người ta sợ mà không dám làm điều ác, khi có thể dấu đươc hành vi phạm tội, khi có thể tránh được sự trừng phạt thì kẻ xấu vẫn làm điều ác. Nếu dùng đức trị mà cai trị dân, khi biến quyền lợi của giai cấp phong kiến thành quyền lợi của dân, thì họ sẽ không vì sợ pháp luật nhưng vì sợ xấu hổ trước người khác, sợ lương tâm cắn rứt mà không làm điều ác nữa. Do đó, nó là phương tiện lừa bịp của giai cấp thống trị: nó khiến cho kẻ áp bức bóc lột dân lại trở thành ân nhân của người dân. Cũng theo Khổng Tử, đức trị muốn đạt hiệu quả cao phải đi đôi với lễ trị. Nghĩa là đạo đức sẽ được củng cố bằng những lễ nghi, cách nói năng, ăn mặc, cư xử trong cuộc sống. Từ đời Hán trở đi, Đức trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội cũng như trong chính sách cai trị của nhà nước. Đến thời Đường, Đức trị của nho giáo còn được bổ sung thêm thuyết Nhân trị của phật giáo. Nhân trị ở đây là lòng từ bi, cứu nhân độ thế. Đến đời Tống, Minh sự suy yếu của đạo đức nho giáo được biểu hiên qua sự suy thoái của triều đại, một số học giả khôi phục lại học thuyết pháp trị nhưng không thành. Đến cuối đời Thanh, nho giáo và tư tưởng đức trị cũng bị phê phán kịch liệt Tóm lại, trong suốt thời kì phong kiến trung Quốc đức trị và pháp trị đã cùng tồn tại với nhau, tương hỗ nhau. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau thì mức độ ảnh hưởng của hai học thuyết này có khác nhau. Nhìn chung thì nho giáo giữ vị trí thượng tôn, pháp trị vẫn được áp dụng nhưng không thể hiện một cách công khai. Pháp trị là tư tưởng chủ đạo và được thực hành ở thời kì chiếm hữu nô lệ (cụ thể là thời xuân thu chiến quốc) và ở buổi ban đầu của chế độ phong kiến Trung Quốc ( nhà Tần) còn chức vụ của nho giáo là tư tưởng chủ đạo thịnh hành gần như suốt trong chế độ phong kiến ( từ Hán đến Thanh). Và đương nhiên trong suốt quá trình đó tư tưởng pháp trị trong một chừng mực nhất định đã được lồng ghép và hòa trộn vào đức trị. Pháp trị hay đức trị đều cùng một bản chất, đó chỉ là những biện pháp cai trị khác nhau, chỉ là sự khác nhau về việc áp dụng pháp luật. III) ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TRUNG QUỐC Trung Quốc là một nước lớn có nền văn minh phát triển sớm và thường xuyên chinh phục, đồng hóa các quốc gia lân cận. Văn hóa Trung quốc có ảnh hưởng lớn đến các nước phương Đông như: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Riêng về pháp luật thể hiện hai điểm nổi bật: - Tư tưởng pháp trị pháp lí nho giáo - Tư tưởng pháp luật kết hợp với cả đức trị và pháp trị Chính bởi hai đặc trưng nổi bật trên đã có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến pháp luật các nước khác trong đó Việt Nam là một nước tiêu biểu. Do có nhiều nét tương đồng mà các nhà làm luật ở các triều đại phong kiến Việt Nam đã vận dung nhiều hình thức pháp lí và chế định pháp luật phong kiến Trung Quốc. Pháp luật phong kiến Việt Nam đã dựa vào và thể chế hóa nội dung cơ bản của đạo nho. Tư tưởng đức trị, lễ nghĩa của nho giáo là sự kết hợp giữa đức trị với pháp trị từng bước được thẩm thấu vào luật pháp phong kiến Việt Nam, trở thành tư tưởng chủ đạo của các nhà làm luật Việt Nam, nhất là từ thời Lê trở đi. Vua Lê thánh Tông đã đặt ra 24 điều giáo hóa để giữ lấy luân thường đạo lí trong gia đình và thuần phong mĩ tục trong xã hội, thực chất đó là những quy tắc lễ nghĩa của đạo nho. Vua Lê Huyền Tông đã ra một đạo chỉ trong đó có một điều đã tóm tắt tất cả tinh thần của đạo chỉ: “làm người phải lấy tấm gương, ngũ thường làm đường lối mà theo” .Bộ luật Hồng Đức và bộ luật Gia Long thực chất là sự thể chế hóa tư tưởng đức trị và lễ nghĩa của nho giáo, thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị, giữa lễ và hình. Đó chính là sự tiếp thu những đặc trung cơ của pháp luật phong kiến Trung Quốc. C- KẾT LUẬN: Lịch sử luôn là sự bí ẩn của muôn đời, tự thân nó đã chứa đựng rất nhiều điều chúng ta chưa biết hoặc biết nhưng chưa đầy đủ. Pháp luật phong kiến Trung Quốc với những đặc trưng của mình có tầm ảnh hưởng quan trong đến xã hội phong kiến Trung Hoa nói chung và luật pháp của các quốc gia khác nói riêng trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc tìm hiểu về pháp luật phong kiến Trung Quốc có ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan trong. Bởi đó chính là cơ sở, nền tảng quan trọng để xây dựng một đất nước Trung Hoa vững mạnh và hưng thịnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật. NXB Công an nhân dân, 2009 Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật. NXB Đại học quốc gia Hà Nội 1997. Nguyễn Gia phú (chủ biên), Lịch sử thế giới trung đại. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.